Dân ca, qua truyền khẩu, đã không ngừng biến thiên, thu nhận những tinh túy của nhiều thế hệ, mỗi người một chút, để cuối cùng trở thành một tác phẩm hoàn chỉnh của sự sáng tạo tập thể.
Dân ca Quan họ là một loại hình dân ca nổi tiếng của Việt Nam, là niềm tự hào của người dân vùng Kinh Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung. Dân ca Quan họ là một nghệ thuật được hợp thành bởi nhiều yếu tố như: âm nhạc, lời ca, phục trang, lễ hội, .. Dân ca Quan họ với âm điệu và nội dung lời ca phong phú là bức tranh phản ảnh cuộc sống muôn mặt và là nét văn hóa tiêu biểu của người dân vùng Kinh Bắc. Những khúc ca như Người ơi người ở đừng về, Giã bạn, Mời trầu… càng hát, càng nghe, lại càng “ngấm” nghệ thuật diễn tả cảm xúc của cha ông ta ngày xưa.
Vài nét về vùng đất Kinh Bắc
Kinh Bắc là tên gọi một vùng đất rộng lớn ở phía Bắc kinh thành Thăng long, nằm trong vùng văn hóa châu thổ sông Hồng Hà và sông Thái Bình. Vùng đất Kinh Bắc có truyền thống văn hóa và truyền thống làng nghề từ rất lâu đời. Người ta đã thống kê qua lịch sử khoa cử của các triều đại phong kiến, từ khoa thi đầu tiên (1075 – triều Lý) đến khoa thi cuối cùng (1919 – triều Nguyễn), Kinh Bắc có 645 tiến sĩ và tương đương tiến sĩ, chiếm tỉ lệ hơn 1/4 của cả nước. Kinh Bắc có các làng nghề truyền thống nổi tiếng như: làng tranh Đông Hồ, làng giấy Đống Cao, làng đồng Đại Bái, làng chạm khắc Phù Khê… Kinh Bắc còn có nhiều danh lam thắng cảnh, đình, đền, chùa cổ kính. Người dân Kinh Bắc gắn bó trong tình làng nghĩa xóm, trong lao động cần cù, khát vọng yêu thương… và chúng đã hóa thân vào trong những làn điệu tha thiết của Quan họ truyền từ đời này qua đời khác.
Từ xa xưa, vùng Kinh Bắc là xứ sở của Quan họ. Dưới thời Pháp thuộc Kinh Bắc chia làm hai tỉnh là Bắc Ninh và Bắc Giang, năm 1963 hai tỉnh được sáp nhập thành tỉnh Hà Bắc và đến 1997 lại tách làm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Các làng Quan họ đa số tập trung chung quanh thị xã Bắc Ninh, chỉ có vài làng nằm rải rác ở Bắc Giang nên Bắc Ninh được xem là quê hương của Quan họ. Trên mảnh đất Bắc Ninh, Bắc Giang, có nhiều dân tộc sinh sống nhưng Quan họ chỉ tồn tại và phát triển trong cộng đồng dân tộc Kinh. Người ta cũng đã thống kê được có 49 làng Quan họ trên đất Kinh Bắc.
Nguồn gốc của Quan họ
Cho đến nay, tuy có nhiều công trình nghiên cứu kỹ lưỡng về Quan họ nhưng chúng ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc của nó. Có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc của Quan họ, chúng ta có thể điểm qua các truyền thuyết được nhiều người nhắc đến như sau:
1. Lê Văn Hảo trong Bắc Ninh tỉnh khảo dị (bản chép tay, thư viện Paris) viết:
“Làng Viêm Xá kết nghĩa với làng Hoài Bão. Diêm Xá (1) mở hội thờ thần vào mồng 4 tháng Giêng và mồng 10 tháng Tám. Mỗi lần có hội, Diêm Xá mời một đoàn trai làng Hoài Bão sang. Sau khi tế lễ xong thì tổ chức ca hát. Bên Viêm Xá toàn là nữ, bên Hoài Bão toàn là nam. Trai gái hai làng hát đối đáp với nhau. Dân Viêm Xá quan niệm rằng năm nào làng không cử hành lễ hội như vậy thì trong làng sẽ xảy ra nhiều chuyện bất an, người vật bị ốm, mùa màng thất bát, buôn thua bán lỗ, dân làng cãi cọ nhau, trai gái sinh ra tật hư nết xấu. Vì vậy mà có hát Quan họ”.
2. Nguyễn Duy Kiện trên Việt Báo ngày 21/2/1940 viết:
“Đã lâu lắm từ thời thượng cổ, nhân dân hai làng Lũng Nhai và Tam Sơn giao hảo với nhau rất thân mật. Hễ làng nào có việc quan, hôn, tang, tế… thì báo cho làng kia biết để dân làng kia cử vài người đại biểu, đem đồ lễ sang viếng hoặc mừng nhà hữu sự. Làng Tam Sơn hằng năm cứ tháng Giêng có lễ vào đám thờ cúng thành hoàng, trong làng mở hội, các cụ bên Lũng Nhai lại sang chơi. Sáng ngày 13 tháng Giêng, họp nhau 5-7 cụ ông, 5-7 cụ bà và một số đông nam thanh nữ tú biết hát kéo nhau sang Tam Sơn. Bên Tam Sơn cũng cử một số người ra thù tiếp. Sau khi đã ngồi trên dưới thứ tự tại đình thì bắt đầu hát. Trai bên này hát, gái bên kia đáp, còn các cụ thì ngồi nghe. Từ thuở ban sơ cổ đại, hai làng cứ theo tục này mà di truyền. Đó cũng là nguồn gốc của hát Quan họ”.
3. Trong Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Lưu Hữu Phước – Nguyễn Văn Phú – Nguyễn Viêm – Tú Ngọc, Nhà xb Văn Hóa – 1962) có in lại 8 truyền thuyết về nguồn gốc Quan họ của nhóm tác giả Lưu Khâm – Nguyễn Đình Tấn – Nguyễn Viêm, một trong những truyền thuyết đó như sau:
“Ông Tập ở Viêm Xá (Võ Giàng) cho biết: Cách nay 12 đời có hai người làm quan thị vệ trong triều, một người quê ở Diềm (2), một người quê ở Bịu (2). Hiện nay ở Diềm còn di tích lăng mộ, ở Bịu không còn. Hồi còn quan hai người có chơi với nhau, đến khi về hưu thì giao ước kết bạn đi lại, nếu ở làng ai có vui như cưới xin, khao lão thì mời cả hai họ về dự. Thời đó nhân dân vẫn có hát Đúm, nhưng từ khi hai họ này kết bạn thì người ta đem những câu hát Đúm vào để ca hát trong những ngày vui đó. Từ đó lưu truyền tục lệ này. Cứ hội Diềm tháng 8, hội Bịu tháng 1, người ta lại tụ họp, ngồi chung quanh một ngọn đèn lớn để ca hát và Quan họ do đó sinh tên (hai họ nhà quan hát với nhau) và từ đấy gọi ‘Quan họ’ thay thế cho hát Đúm”.
Còn nhiều truyền thuyết khác, nhưng cái chung của đa số các truyền thuyết đó là lối hát đối đáp giữa hai họ, hai làng, hai đối tượng. Về thời điểm phát sinh của Quan họ cũng có khác nhau như: thời thượng cổ, thời Lý, thời Trần, thời Lê… Song chúng ta nhận thấy rằng, ban đầu đa số Quan họ được hát với tính chất lễ nghi trong các dịp tế lễ ở đình làng, miếu, chùa, mừng thọ, khao lão… Dần dần, tính chất trữ tình được tăng cường đã trả nó về với cuộc sống đời thường để trở thành một lối sinh hoạt rộng rãi trên nhiều địa điểm khác nhau: trong nhà, trên đồi, trên sông… Trong đó, Quan họ cũng dựa vào những ngày hội cúng tế, nhưng đó chỉ là cái dịp để người ta tổ chức hát giao duyên chứ không phải với nội dung nghi lễ. Vì thế mà trong đời sống dân Kinh Bắc có rất nhiều lễ hội hát Quan họ như: “Hội Lim”, “Hội Ó”, “Hội Hiếu ở Lũng Nhai – Tam Sơn”, “Hội trên thuyền ở Bùi”…
Tuy về nguồn gốc chưa được xác định rõ ràng, nhưng làng Viêm Xá được nhắc tới nhiều nhất trong các truyền thuyết. Hiện nay Viêm Xá có 4 hội làng trong một năm – điều mà cả 49 làng Quan họ ở vùng Kinh Bắc không nơi nào có được – đặc biệt ngày nay Hội Vua Bà là lễ hội dài ngày nhất và thu hút đông đảo người hát Quan họ nhất, nên Viêm Xá được dân Kinh Bắc xem như là làng Quan họ gốc và thủy tổ của các làn điệu dân ca ấy là Vua Bà (hiện đang được nhân dân thờ phụng tại đền thờ trên làng Viêm Xá).
Nét khác biệt trong Quan họ truyền thống và Quan họ mới
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Quan họ, Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc (44 làng ở Bắc Ninh, 5 làng ở Bắc Giang) với hàng ngàn bài hát lời cổ mộc mạc, dân dã mang nét đẹp riêng vừa thiêng liêng, vừa cổ xưa mà rất Việt Nam.
Phóng sự nguồn gốc quan họ
Mời các bạn cùng xem phóng sự Nguồn gốc quan họ để hiểu thêm về nét văn hóa đặc sắc của người dân xứ Kinh Bắc.
(1) Viêm Xá còn gọi là Diềm Xá nay thuộc xã Hòa Long, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
(2) Diềm: làng Diềm Xá (Viêm Xá); Bịu: làng Bịu Sim.
Tài liệu tham khảo:
– Quan họ – nguồn gốc và quá trình phát triển (Đặng Văn Lung – Hồng Thao – Trần Linh Quý, Nhà xb KHXH – 1978)
– Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Lưu Hữu Phước – Nguyễn Văn Phú – Nguyễn Viêm – Tú Ngọc, Nhà xb Văn Hóa – 1962)
khánh đẹp trai
nguyễn hoàng khánh
sai bét rồi kìa, năm 2008 công nhận BG có 5 làng nhưng đó là do sai sót bên UNESCO và đến năm 2009-2010 thì bên UNESCO mới công nhận thêm 18 làng nữa và BG có 23 làng, nói vài làng vẫn thấy hơi vô lý tý nha